Hành vi cho vay nặng lãi hiện nay đang có xu hướng lan rộng ở cả
thành thị và nông thôn; tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây nguy hiểm cho xã hội, làm gia
tăng tội phạm khác như: cố ý gây thương thương tích, cướp tài sản hoặc cưỡng đoạt
tài sản... Việc xử lý hình sự đối với tội phạm "Cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự" là hết sức cần thiết và có tác dụng răn đe, giáo dục,
phòng ngừa chung.
Tóm tắt nội dung vụ án:
Trong thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng
12/2018 Nguyễn Văn B đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp luật và hoàn cảnh
khó khăn của người dân, nên Nguyễn Văn B đã làm các tờ rơi quản cáo có
nội dung cho vay nhanh, gọn; không cần thế chấp; giải ngân trong ngày, Nguyễn
Văn B đã cho 53 người với 119 lượt vay tại các huyện trong tỉnh QN, tổng số
tiền 524.000.000 đồng, đến lúc bị bắt Nguyễn Văn B đã thu được 463.470.000
đồng. Trong đó: tiền gốc là 355.385.240 đồng, tiền lãi là 108.084.760 đồng, lãi
suất thấp nhất là 319%/năm, cao nhất là 473%/năm cao hơn so với quy định trong
Bộ luật dân sự từ 16,45 đến 23,65 lần (trong đó lãi xuất 20% theo Bộ luật dân
sự là 6.572.603 đồng, lãi suất vượt trên 20% là 101.512.157 đồng) và 25.050.000
đồng tiền công thu thêm.
Trong quá trình truy tố và xét xử, các Cơ quan
tiến hành tố tụng đã thống nhất về tội danh Nguyễn Văn B phạm tội "Cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự" theo quy định tại Điều 201 Bộ luật hình
sự 2015; Tuy nhiên trong việc áp dụng các biện pháp tư pháp vẫn còn có nhiều
quan điểm khác nhau liên quan đến xác định tư cách của người vay (bên nhận nợ)
là người Bị hại được quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hay
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định tại Điều 65 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Quan điểm thứ nhất: Người vay (bên nhận nợ)
là người Bị hại được quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 do
đó trong quá trình xét xử phải tuyên trả lại người vay đối với tiền lãi vay
108.084.760 đồng và tiền thu thêm (phụ thu) 25.050.000 đồng vì đây là thiệt hại
của người vay theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đối với tiền cho vay 524.000.000 đồng : Đây là
phương tiện sử dụng vào việc phạm tội căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật
Hình sự năm 2015 nên phải tuyên sung công quỹ nhà nước.
Quan điểm thứ hai: Người vay (bên
nhận nợ) là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định tại
Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 do đó số tiền thu lợi bất chính là
101.512.157 đồng mà Nguyễn Văn B đã phạm tội "Cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự" (108.084.760 đồng - 6.572.603 đồng) phải bị tịch thu nộp ngân
sách nhà nước theo điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đối với khoản lãi được pháp luật cho phép
(20%/năm) là 6.572.603 đồng và số tiền cho vay 524.000.000 đồng là giao dịch
dân sự mà nhà nước không cấm nên các bên tự thỏa thuận.
Quan điểm thứ ba: Người vay (bên
nhận nợ) là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định tại
Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và xác định hợp đồng vay mượn này là
giao dịch dân sự vô hiệu vì vi phạm điều cấm của pháp luật nên áp dụng Điều
123, 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”
tức là bên cho vay hoàn trả toàn bộ khoản lãi vay 108.084.760 đồng và khoản thu
thêm 25.050.000 đồng cho bên vay và bên vay trả lại toàn bộ gốc cho bên cho vay
là 524.000.000 đồng.
Tác giả bài viết cho
rằng, quan điểm thứ hai là đúng, vì:
Tội “Cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là loại tội phạm nằm trong
chương xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; giao dịch dân sự vay và cho vay tài
sản nhà nước không cấm và được quy định từ Điều 463 đến Điều 471 Chương “
Hợp đồng vay tài sản” của Bộ luật Dân sự năm 2015, lãi suất quy định tại Điều
468 cao nhất không được vượt quá 20%/ năm; như vậy nhà nước chỉ điều chỉnh
khoản lãi xuất vượt trên 20% và chỉ bị điều chỉnh bởi pháp luật hình sự khoản
lãi vay gấp 5 lần mức cao nhất do Bộ luật Dân sự quy định;
Do đó Số tiền thu lãi vượt quy định
101.512.157 đồng ( số lãi suất trên 20%) và số tiền thu thêm là
25.050.000 đồng (tiền thu ngoài lãi xuất) là tiền thu lợi bất chính nên phải bị
tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; bởi vì Bên vay chấp nhận lãi suất mà Nguyễn
Văn B đã đưa ra tuy không bị ép buộc nhưng so với quy định của pháp luật là
trái pháp luật hình sự, bên đi vay cũng có lỗi. Căn cứ điểm b khoản 1 và
khoản 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 phải bị tịch thu nộp ngân sách nhà
nước.
Đối với số tiền gốc 524.000.000 đồng (
tiền cho vay) và lãi vay trong khoảng 20% theo quy định của Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015 là giao dịch dân sự các bên tự thỏa thuận vì không vi phạm
điều cấm của pháp luật./.
Trần Hoàng Anh, VKSND huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
(Nguồn: kiemsat.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét